Bối cảnh Chiến_tranh_Ogaden

Phân chia lãnh thổ

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh duy trì quyền kiểm soát đối với Somaliland thuộc AnhSomalia thuộc Ý với địa vị lãnh thổ bảo hộ. Năm 1950, theo điều khoản trong các Hòa ước Paris 1947, Liên Hiệp Quốc cấp cho Ý quyền quản trị Somalia thuộc Ý, song nằm dưới giám sát chặt chẽ và với điều kiện là Somalia giành độc lập trong mười năm.[16][17] Somaliland thuộc Anh duy trì là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh cho đến năm 1960.[18]

Năm 1948, dưới áp lực từ các Đồng Minh trong Thế chiến II của mình và để làm mất tinh thần người Somali,[19] người Anh trao trả HaudOgaden cho Ethiopia, dựa theo một hiệp ước mà họ ký vào năm 1897 với nội dung người Anh, Pháp, và Ý thỏa thuận về biên giới lãnh thổ của Ethiopia với Hoàng đế Ethiopia Menelik để đổi lấy việc ông trợ giúp chống các thị tộc thù địch tập kích.[20] Anh đưa vào điều kiện là các cư dân người Somalia sẽ giữ lại quyền tự trị của họ, song Ethiopia lập tức yêu sách chủ quyền đối với khu vực.[16] Điều này xúc tiến một nỗ lực bất thành của người Anh vào năm 1956 để mua lại đất của người Somali bị chuyển giao.[16] Anh cũng trao quyền quản trị khu vực hầu như chỉ có người Somali cư trú[21] là Khu vực Biên giới Phương Bắc (NFD) cho người Kenya bất chấp kết quả bỏ phiếu không chính thức biểu thị ý nguyện áp đảo của cư dân khu vực là gia nhập nước Cộng hòa Somali mới thành lập.[22]

Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại Djibouti láng giềng (đương thời gọi là Somali thuộc Pháp) vào năm 1958, trước khi Somalia độc lập vào năm 1960, nhằm quyết định gia nhập nước Cộng hòa Somalia hay duy trì thuộc Pháp. Kết quả là ủng hộ tiếp tục liên kết với Pháp, phần lớn là do phiếu của dân tộc Afar có số lượng đáng kể và cư dân gốc Âu.[23] Cũng tồn tại gian lận phổ biến trong bỏ phiếu, khi người Pháp trục xuất hàng nghìn người Somali trước khi diễn ra bỏ phiếu.[24] Đa số cử tri bỏ phiếu chống thuộc Pháp thuộc dân tộc Somali, họ tán thành mãnh liệt gia nhập Somalia thống nhất.[23] Djibouti cuối cùng giành độc lập từ Pháp vào năm 1977, và một nhân vật người Sonmali là Hassan Gouled Aptidon trở thành tổng thống đầu tiên của Djibouti.[23]

Somaliland thuộc Anh độc lập vào ngày 26 tháng 6 năm 1960 với quốc hiệu Quốc gia Somaliland, và Lãnh thổ ủy thác Somalia (tức Somalia thuộc Ý cũ) độc lập năm ngày sau đó.[25] Đến ngày 1 tháng 7 năm 1960, hai lãnh thổ hợp nhất thành Cộng hòa Somali.[26][27] Một chính phủ được thành lập, với Haji Bashir Ismail Yusuf là Chủ tịch Quốc hội, Aden Abdullah Osman Daar là Tổng thống và Abdirashid Ali Shermarke là Thủ tướng (ông làm tổng thống từ 1967–1969). Đến ngày 20 tháng 7 năm 1961 và qua một cuộc trưng cầu dân ý, nhân dân Somalia thông qua một hiến pháp mới, vốn được soạn thảo lần đầu tiên vào năm 1960.[28]

Đến ngày 15 tháng 10 năm 1969, trong khi đến thăm thị trấn Las Anod, Tổng thống Shermarke bị một cận vệ của ông bắn chết. Sau đó, một cuộc đảo chính quân sự được tiến hành vào ngày 21 tháng 10 năm 1969 (ngày sau tang lễ của ông), trong đó Quân đội Somalia đoạt quyền lực. Người khởi xướng đảo chính là tư lệnh Lục quân Thiếu tướng Mohamed Siad Barre.[29]

Hội đồng Cách mạng Tối cao

Hội đồng Cách mạng Tối cao (SRC) nắm quyền sau khi Tổng thống Sharmarke bị ám sát, và nằm dưới quyền lãnh đạo của Mohamed Siad Barre và Trung tá Salaad Gabeyre Kediye và Cảnh sát trưởng Jama Korshel. Kediye chính thức giữ anh hiệu "Cha của Cách mạng," và Barre ngay sau đó trở thành thủ lĩnh của SRC.[30] SRC sau đó đổi tên nước thành Cộng hòa Dân chủ Somali,[31][32] giải thr nghị viện và Tòa án Tối cao, và đình chỉ hiến pháp.[33]

Ngoài hỗ trợ tài chính và vũ khí từ trước của Liên Xô, Somalia còn được Ai Cập gửi cho hàng triệu USD vũ khí, huấn luyện quân sự và gửi chuyên gia đến Somalia nhằm hỗ trợ cho chính sách dài hạn của Ai Cập trong việc đảm bảo dòng chảy sông Nin trước Ethiopia bất ổn.

Derg

Huy hiệu Đảng của chế độ Derg tại Ethiopia.

Trong khi Somalia đạt được sức mạnh quân sự, thì Ethiopia ngày càng suy yếu. Trong tháng 9 năm 1974, Hoàng đế Haile Selassie bị Derg (hội đồng quân sự) lật đổ, khởi đầu một thời kỳ náo động. Derg nhanh chóng lâm vào xung đột nội bộ để xác định thủ lĩnh. Trong khi đó, nhiều phong trào chống Derg cũng như ly khai khác nhau bắt đầu trên toàn quốc. Cán cân sức mạnh trong khu vực nay nghiêng về Somalia.

Một trong các tổ chức ly khai tìm cách tận dụng thời cơ bất ổn là Mặt trận Giải phóng Miền Tây Somalia (WSLF) ủng hộ Somalia, hoạt động tại khu vực Ogaden có cư dân là người Somali, cho đến cuối năm 1975 họ đã tấn công nhiều đồn của chính phủ. Từ năm 1976 đến 1977, Somalia cung cấp vũ khí và viện trợ khác cho WSLF.

Một dấu hiệu cho thấy trật tự trong Derg được khôi phục là lời tuyên bố của Mengistu Haile Mariam với tư cách nguyên thủ quốc gia vào ngày 11 tháng 2 năm 1977. Tuy nhiên, Ethiopia vẫn nằm trong náo động khi quân đội nỗ lực trấn áp các đối thủ dân sự. Bất chấp bạo lực, Liên Xô sau khi quan sát chặt chẽ đã trở nên tin tưởng rằng Ethiopia đang phát triển thành một nhà nước Marxist–Leninist đích thực và Liên Xô có lợi ích trong viện trợ chế độ mới. Do đó, họ bí mật tiếp cận Mengistu với các đề nghị viện trợ và được chấp thuận. Ethiopia đóng cửa phái đoàn quân sự và trung tâm thông tin Hoa Kỳ trong tháng 4 năm 1977.

Tháng 6 năm 1977, Mengistu cáo buộc Somalia đưa binh sĩ xâm nhập khu vực của người Somali để chiến đấu cùng WSLF. Bất chấp các bằng chứng đáng kể, Barre kịch liệt bác bỏ điều này, nói rằng các tình nguyện viên Quân đội Somalia được phép trợ giúp WSLF.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Ogaden http://info.newcastle.edu.au/Resources/Schools/Eco... http://www.buluugleey.com/warkiidanbe/Governance.h... http://www.onwar.com/aced/data/oscar/ogaden1976.ht... http://www.strategypage.com/htmw/htwin/articles/20... http://lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@f... http://www.acig.org/ http://www.acig.org/artman/publish/article_188.sht... //doi.org/10.1080%2F03071848308523524 http://www.globalsecurity.org/military/library/rep... http://www.globalsecurity.org/military/library/rep...